Ngành Dịch Vụ Chiếm Tỉ Trọng Cao Nhất Là

Ngành Dịch Vụ Chiếm Tỉ Trọng Cao Nhất Là

Khác với các sản phẩm vật chất, ngành dịch vụ đòi hỏi sự tham gia trực tiếp của người dùng. Người dùng có vai trò quan trọng trong quá trình tạo ra và trải nghiệm dịch vụ. Kết quả cuối cùng của dịch vụ thường phụ thuộc vào sự tương tác và phản hồi của khách hàng.

Khác với các sản phẩm vật chất, ngành dịch vụ đòi hỏi sự tham gia trực tiếp của người dùng. Người dùng có vai trò quan trọng trong quá trình tạo ra và trải nghiệm dịch vụ. Kết quả cuối cùng của dịch vụ thường phụ thuộc vào sự tương tác và phản hồi của khách hàng.

Các mô hình đo lường chất lượng ngành dịch vụ

Có nhiều mô hình đo lường chất lượng trong ngành dịch vụ, trong đó có các mô hình sau:

Mô hình SERVQUAL là một mô hình đo lường chất lượng dịch vụ được phát triển bởi A. Parasuraman, Valerie Zeithaml và Leonard Berry. Đây là một trong những mô hình đo lường chất lượng dịch vụ phổ biến nhất và được sử dụng rộng rãi trong ngành dịch vụ.

Mô hình SERVQUAL tập trung vào 5 khía cạnh quan trọng của chất lượng dịch vụ bao gồm:

RATER là một sự phát triển mô hình đo lường chất lượng dịch vụ SERVQUAL. Ý tưởng chính của phương pháp này là chất lượng dịch vụ thấp hơn mong đợi thường liên quan đến 5 lỗ hổng chính. Các tác giả đề xuất rằng sự khác biệt giữa chất lượng mong đợi và chất lượng cảm nhận được đánh giá theo 5 yếu tố sau:

J.J. Cronin và S.A Taylor đã từng nhận định rằng nghiên cứu của Parasuraman về mối quan hệ giữa chất lượng mong đợi và chất lượng được trải nghiệm không phải là cách tiếp cận đúng đắn để đánh giá chất lượng. Dựa trên cơ sở này, mô hình SERVPERF đã được tạo ra.

SERVPERF đo lường chất lượng dịch vụ dựa trên thái độ, chứ không phải trên sự hài lòng. Mô hình SERVPERF là một biến thể của SERVQUAL và sử dụng các hạng mục tương tự để đánh giá chất lượng dịch vụ (mô hình RATER).

Mô hình Gummesson nhấn mạnh vào chất lượng cảm nhận và sự hài lòng của khách hàng. Theo phương pháp này, chất lượng dịch vụ được xem xét qua bốn chiều chính:

Xây dựng "hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát" cả ngàn doanh nghiệp

Theo kết luận, quá trình hoạt động, Tập đoàn Vạn Thịnh Phát đã xây dựng "hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát" với hơn 1.000 doanh nghiệp gồm các công ty con, công ty thành viên trong và ngoài nước, được chia thành nhiều tầng lớp, với hàng trăm cá nhân được thuê đứng tên đại diện pháp luật. Những người được thuê này đều có quan hệ họ hàng hoặc là cán bộ, công nhân viên Tập đoàn Vạn Thịnh Phát.

"Hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát" được chia làm 4 nhóm chính có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Cụ thể, nhóm định chế tài chính Việt Nam gồm SCB, Công ty Chứng khoán Tân Việt, Công ty CP đầu tư tài chính Việt Vĩnh Phú. Trong đó SCB có vai trò "đặc biệt quan trọng", được sử dụng như một công cụ tài chính để cấp vốn cho các công ty trong "hệ sinh thái".

Nhóm công ty có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam phần lớn hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, nhà hàng, khách sạn… đều là công ty có vốn điều lệ lớn, nắm cổ phần chi phối các công ty con, công ty thành viên…

Nhóm các công ty được gọi là "công ty ma" tại Việt Nam, được thành lập để lấy pháp nhân góp vốn đầu tư vào các dự án, vay vốn ngân hàng, thực hiện việc đảo nợ hoặc ký hợp đồng hớp tác, thi công…

Mạng lưới công ty tại nước ngoài: Trương Mỹ Lan xây dựng mạng lưới nhiều công ty vỏ bọc, tại các vùng lãnh thổ, quốc gia "thiên đường thuế" phục vụ hoạt động đầu tư, kinh doanh tại nước ngoài hoặc sử dụng danh nghĩa "nhà đầu tư nước ngoài" đầu tư vào Việt Nam có nhiệm vụ quản lý vốn, tài sản của gia đình Trương Mỹ Lan tại nước ngoài.

Giải Địa 10 Bài 26: Vai trò, đặc điểm, cơ cấu, các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố dịch vụ

Luyện tập 1 trang 96 Địa Lí 10: Vì sao ở các nước phát triển có tỉ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP cao?

Ở các nước phát triển có tỉ trọng ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP cao là do:

- Ngành dịch vụ đem lại nguồn thu rất lớn.

- Nguồn lao động các nước phát triển có trình độ cao đáp ứng được những đòi hỏi của ngành dịch vụ.

- Hạ tầng phục vụ dịch vụ rất đầy đủ và hiện đại đáp ứng được yêu cầu của ngành dịch vụ; nguồn vốn lớn để đầu tư mạnh vào các lĩnh vực dịch vụ.

- Thu nhập của dân cao nên nhu cầu về các loại hình dịch vụ rất đa dạng.

- Các nước phát triển đã hoàn thành quá trình công nghiệp hóa đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức.

Xem thêm lời giải bài tập Địa Lí lớp 10 Cánh diều hay, ngắn gọn khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 10 hay khác:

Tầm quan trọng của ngành dịch vụ

Ngành dịch vụ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển nền kinh tế, hoạt động sản xuất và giúp cải thiện đời sống xã hội.

Đầu tiên, ngành dịch vụ tạo ra một lượng lớn việc làm cho người lao động, đặc biệt là trong các lĩnh vực như du lịch, nhà hàng, giáo dục, y tế và tài chính. Việc tạo ra việc làm này không chỉ giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp mà còn tăng thu nhập và cải thiện mức sống của cộng đồng.

Bên cạnh đó, ngành dịch vụ đóng góp đáng kể vào GDP của quốc gia. Sự phát triển và mở rộng của các lĩnh vực như tài chính, bất động sản, du lịch và giáo dục,… có ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng kinh tế.

Không chỉ thế, ngành dịch vụ cũng góp phần quan trọng vào đời sống xã hội. Các dịch vụ y tế, giáo dục và văn hóa cung cấp những lợi ích trực tiếp cho cộng đồng. Chúng cải thiện sức khỏe và trình độ học vấn, tạo ra trải nghiệm văn hóa và giải trí, nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời, các dịch vụ như du lịch và nhà hàng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra niềm vui, trải nghiệm đáng nhớ cho mọi người.

Những đặc điểm của ngành dịch vụ là:

Ngành dịch vụ không có hình thái cụ thể, bạn không thể nghe, nhìn, ngửi, cảm nhận trước khu mua sử dụng. Điều này đặc biệt đúng đối với các dịch vụ trực tuyến. Để biết được chất lượng của dịch vụ, bạn cần dựa vào thông tin, đánh giá và phản hồi từ người dùng trước đó. Vì vậy, nếu muốn đưa ra quyết định đúng đắn, việc tìm hiểu các đánh giá về dịch vụ là rất quan trọng.

Một trong những đặc điểm của ngành dịch vụ là tính không ổn định. Các yếu tố bên ngoài như thị trường, kinh tế, thay đổi nhu cầu của khách hàng, công nghệ và cạnh tranh,… cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp dịch vụ. Vì vậy, doanh nghiệp phải luôn luôn thích nghi với thị trường và nhu cầu của khách hàng để duy trì, phát triển.

Hãy tưởng tượng bạn đặt phòng khách sạn cho một chuyến đi du lịch dài 5 ngày, nhưng do một sự cố bất ngờ bạn phải rời khỏi khách sạn sớm hơn 2 ngày. Trong trường hợp này, bạn không thể lưu trữ số ngày còn lại để sử dụng sau.

Đây là một ví dụ chứng minh cho việc các dịch vụ không được lưu trữ, tích trữ và sử dụng sau này như các sản phẩm thông thường.

Một đặc điểm quan trọng của ngành dịch vụ là nó không tách rời, không thể tự tác động lên khách hàng mà phụ thuộc vào người cung cấp dịch vụ. Tức là, khách hàng cần phải được đưa vào trung tâm của quá trình cung cấp dịch vụ và nhận được sự hỗ trợ từ người cung cấp để có được trải nghiệm dịch vụ tốt nhất. Không giống như sản phẩm, dịch vụ không tồn tại một mình mà chỉ có thể tồn tại khi được cung cấp và sử dụng bởi khách hàng.

Xem thêm: Dịch vụ chăm sóc khách hàng: Tìm hiểu khái niệm và tầm quan trọng

Thủ đoạn "rút ruột" SCB chiếm đoạt hơn 304.000 tỉ

Với chủ trương lợi dụng hoạt động của ngân hàng trong việc huy động nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu kinh doanh của "hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát", bà Trương Mỹ Lan đã thâu tóm 3 ngân hàng tư nhân bằng việc mua, sở hữu phần lớn số lượng cổ phần rồi thao túng.

Từ tháng 12-2011, bằng hình thức nhờ người đứng tên sở hữu cổ phần, bà Lan nắm giữ hơn 81% cổ phần của Ngân hàng TMCP Sài Gòn (cũ), hơn 98% cổ phần của Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa và hơn 80% cổ phần của Ngân hàng TMCP Đệ Nhất.

Sau khi ba ngân hàng trên hợp nhất thành SCB, bà Lan tiếp tục nhờ người đứng tên hơn 85% cổ phần của nhà băng này. Chủ tịch Vạn Thịnh Phát tiếp tục mua và nhờ người đứng tên để tăng tỉ lệ sở hữu cổ phần tại SCB lên hơn 91% vào ngày 1-1-2018.

Với việc sở hữu, nằm quyền chi phối số cổ phần của SCB, bà Trương Mỹ Lan đã đưa người của mình hoặc sử dụng các cá nhân tin tưởng, thân tín đều là những người có trình độ, hoạt động lâu năm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng vào các vị trí chủ chốt của nhà băng này. Họ đều nghe theo chỉ đạo của bà Lan và được trả mức lương cao từ 200-500 triệu đồng/tháng.

Bằng cách thâu tóm, nắm giữ cổ phần chi phối, điều hành hoạt động ngân hàng thông qua nhóm lãnh đạo chủ chốt tại SCB, bà Trương Mỹ Lan sử dụng nhà băng này như "một công cụ tài chính để huy động tiền gửi của người dân và các tổ chức…".

Tuy nhiên trong hoạt động cho vay, SCB lại chủ yếu phục vụ mục đích cá nhân của Trương Mỹ Lan, kết luận nêu.

Kết quả điều tra xác định từ ngày 1-1-2012 đến ngày 7-10-2022, SCB đã cho vay, giải ngân cho 1.366 khách hàng, trong đó liên quan trách nhiệm của Trương Mỹ Lan và đồng phạm vay 2.500 khoản với tổng số tiền 1.066.608 tỉ đồng.

Đến ngày 17-10-2022, các khoản vay tại SCB còn dư nợ hơn 677 ngàn tỉ đều thuộc nhóm không có khả năng thu hồi. Trong đó dư nợ gốc các khoản vay của bà Trương Mỹ Lan chiếm 93% tổng dư nợ gốc của hơn 23.000 khoản vay còn dư nợ tại SCB.

Theo kết luận, sau khi thâu tóm SCB, bà Trương Mỹ Lan đã thông qua các cá nhân thân tín, giữ vai trò chủ chốt tại đây và các cán bộ chủ chốt tại Vạn Thịnh Phát triển khai các hoạt động rút tiền của ngân hàng dưới hình thức giải ngân cho các hồ sơ vay được lập khống. Thậm chí có nhiều khoản vay rút tiền trước hoàn thiện hồ sơ sau.

Mỗi khoản cần rút ra, trong các giai đoạn đều có cách làm khác nhau và được giao cho từng nhóm của Vạn Thịnh Phát để dựng công ty "ma", "vẽ" ra phương án đầu tư tại các dự án, giao cho các bộ phận tính toán tài sản đảm bảo cho phù hợp….

Theo kết luận, Ngân hàng SCB đã huy động tiền gửi từ 50 chi nhánh nhưng chỉ tập trung giải ngân đối với nhóm Trương Mỹ Lan - Tập đoàn Vạn Thịnh Phát tại 3 đơn vị hội sở, 3 chi nhánh lớn, nhỏ lẻ ở 6 chi nhánh.

Các hồ sơ cho vay, giải ngân của nhóm Trương Mỹ Lan tại các đơn vị, chi nhánh trên đều có ký hiệu theo dõi riêng như "HSTT", "phương án, dự án" để các nhân viên ngân hàng nhìn vào đều hiểu là cho vay các công ty trong "hệ sinh thái Vạn Thịnh Phát".

Thực hiện hoạt động này, Trương Mỹ Lan đã giao cho các thân tín tại SCB phối hợp cùng các thuộc cấp tại Vạn Thịnh Phát sử dụng các phương án vay vốn khống đã tạo lập để thực hiện giải ngân, chuyển tiền vào các tài khoản của cá nhân, pháp nhân "ma" để thực hiện chuyển tiền ra khỏi hệ thống ngân hàng hoặc cho các cá nhân, pháp nhân rút tiền mặt nhằm cắt đứt dòng tiền.

Theo kết luận, thủ đoạn của nhóm Trương Mỹ Lan sử dụng để vay tiền SCB gồm: Tạo lập khách hàng vay vốn khống, thuê hoặc nhờ người đứng tên tài sản; Tạo lập hồ sơ vay khống; Đưa tài sản đảm bảo được định giá trị, để tạo ra một bộ hồ sơ đúng như quy định nhằm che giấu, đối phó với các cơ quan thanh tra, kiểm tra, thực chất là để "rút ruột" ngân hàng.

Hầu hết các khoản vay của Trương Mỹ Lan - Tập đoàn Vạn Thịnh Phát được giải ngân trước và thực hiện hợp thức sau, C03 cáo buộc.

Theo quy trình thông thường, ngân hàng chỉ giải ngân khi đã hoàn thiện các thủ tục pháp lý về thế chấp tài sản đảm bảo, nhưng thực tế đối với 1.284 khoản vay của bà Lan còn dư nợ, chưa có thủ tục thế chấp khi giải ngân, số còn lại tài sản bảo đảm chủ yếu là cổ phần, quyền tài sản.

Kết quả xác minh hồ sơ vay vốn 1.284 khoản vay của nhóm Trương Mỹ Lan còn dư nợ tại SCB thì có 201 khoản vay, hồ sơ vay vốn không có phê duyệt của cấp có thẩm quyền. Các khoản vay này giải ngân hơn 10.000 tỉ, đến nay tổng dư nợ 11.600 tỉ.

Nhóm của Trương Mỹ Lan còn tạo lập, sử dụng khách hàng vay vốn khống, thuê người đứng tên tài sản đảm bảo để vay 1.200 khoản tại SCB.

Nhóm bà Lan đã thành lập hàng nghìn pháp nhân, thuê hàng nghìn cá nhân làm đại diện pháp luật, đứng tên cổ đông, đứng tên ký hồ sơ vay vốn, đứng tên tài sản bảo đảm để hợp thức rút tiền của Ngân hàng SCB.

Sở dĩ "kho" pháp nhân này càng ngày càng phình to ra vì phải thành lập nhiều pháp nhân, "dựng" nhiều cá nhân mới để đứng tên khoản vay thì khi kiểm tra tín dụng sẽ không có dư nợ tín dụng lớn, kết luận nêu.

Để Trương Mỹ Lan và đồng phạm thực hiện được hành vi rút tiền, chiếm đoạt tiền từ SCB thông qua thủ đoạn vay còn có sự tiếp tay của các đối tượng tại các công ty thẩm định giá.

Lãnh đạo, nhân viên các công ty này không thực hiện công tác thẩm định nhưng đã phát hành các chứng thư thẩm định giá tài sản theo yêu cầu của SCB để thông đồng, hợp thức thủ tục vay vốn, nâng khống giá trị.

Trong đó, từ ngày 9-2-2018 đến 7-10-2022, bà Lan chỉ đạo lập khống 916 hồ sơ vay vốn rút tiền chiếm đoạt của Ngân hàng SCB, qua đó chiếm đoạt số tiền hơn 304.000 tỉ đồng.

Hành vi trên phạm vào tội tham ô tài sản. Ngoài ra, hành vi này của bà Lan còn gây thiệt hại số tiền lãi phát sinh hơn 129.000 tỉ đồng.

Bà Trương Mỹ Lan bị cáo buộc đã chi phối, lũng đoạn và chỉ đạo hoàn toàn hoạt động của SCB, có vai trò là người tổ chức, chủ mưu, cầm đầu để thực hiện hành vi tham ô tài sản với số tiền đặc biệt lớn.

Hành vi phạm tội của bà Trương Mỹ Lan và đồng phạm được thực hiện với lỗi "cố ý trực tiếp", có dự mưu từ trước, được chuẩn bị, tổ chức thực hiện hết sức công phu, tỉ mỉ và có "kịch bản". Các bị can đã thao túng, lũng đoạn, bất chấp các quy định pháp luật để thực hiện phạm tội.

"Đây là tổ chức tội phạm có quy mô rất lớn, hoạt động hết sức manh động nhưng cũng rất tinh vi, xảo quyệt, hậu quả mà tổ chức tội phạm này gây ra là đặc biệt lớn về kinh tế, ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của ngành ngân hàng, uy tín của Nhà nước trong quản lý kinh tế", kết luận nêu.